Thể chế Vương quốc Macedonia

Phân cấp chính quyền

Mặt trời Vergina, ngôi sao 16 cánh trên larnax an táng hoàng gia của Philippos II của Macedonia (trị vì từ 359-336 TCN), nó được phát hiện trong ngôi mộ ở Vergina, trước kia là thành phố Aigai cổ đại

Đứng đầu chính quyền của Macedonianhà vua (basileos).[note 15] Ít nhất là từ triều đại của Philippos II trở đi, nhà vua đã được trợ giúp bởi những người hầu hoàng gia (basilikoi paides), cận vệ (somatophylakes), các chiến hữu (hetairoi), những người bạn (philoi), một hội đồng mà bao gồm các thành viên của quân đội, và (trong thời kỳ Hy Lạp hóa) các quan tòa.[208] Thiếu các bằng chứng cho thấy mức độ chia sẻ quyền lực của mỗi một nhóm trong số này với nhà vua hoặc là sự tồn tại của chúng đã có nền tảng trong một khuôn khổ hiến pháp chính thức.[note 16] Trước triều đại của Philippos II, thể chế duy nhất được chứng minh bằng văn bản chứng từ đó là chế độ quân chủ.[note 17]

Vương quyền và triều đình hoàng gia

Chính quyền được biết đến đầu tiên của Macedonia cổ đại đó là chế độ quân chủ của nó, chế độ này kéo dài tới năm 167 TCN khi nó bị người La Mã bãi bỏ.[209] Chế độ quân chủ cha truyền con nối của người Macedonia đã tồn tại ít nhất là từ thời kỳ Hy Lạp cổ xưa với gốc rễ là tầng lớp quý tộc Homer từ thời kỳ Mycenae.[210] Thucydides viết rằng vào thời xa xưa, Macedonia được phân chia thành các bộ lạc địa phương nhỏ, mỗi bộ lạc lại có một tiểu vương, các bộ lạc thuộc Hạ Macedonia cuối cùng đã được thống nhất lại dưới quyền của một vị vua vĩ đại, người đã thể hiện quyền lực như là một vị chúa tể đối với các vị tiểu vương của Thượng Macedonia.[16]Sự kế vị cha-con theo trực hệ đã bị phá vỡ sau vụ ám sát Orestes của Macedonia vào năm 396 TCN (được cho là dưới bàn tay của vị nhiếp chính và người kế vị của ông là Aeropos II của Macedonia), làm mờ mịt vấn đề đó là không rõ liệu rằng ở đây là chế độ con trai trưởng thừa kế theo truyền thống có sẵn hay là một hội đồng quân đội hoặc của người dân sẽ có quyền lập hiến được lựa chọn một vị vua khác.[211] Chúng ta không rõ liệu rằng con trai của các hoàng hậu hoặc những người vợ người Macedonia có luôn luôn được ưu tiên hơn những người khác hay không bởi vì Archelaos I của Macedonia đã lên ngôi sau khi đã ám sát người thừa kế được chỉ định của cha mình, bản thân Archelaos là một người con trai của Perdiccas II của Macedonia với một nữ nô lệ.[212]

Hades bắt cóc Persephone, tranh tường trong một ngôi mộ hoàng gia Macedonia nhỏ ở Vergina, Macedonia, Hy Lạp, khoảng năm  340 TCN

Chúng ta biết được rằng các vị vua Macedonia trước thời Philippos II đã nắm giữ những đặc quyền và thực hiện trách nhiệm tiếp đãi những sứ thần ngoại quốc, quyết định chính sách đối ngoại của vương quốc, và đàm phán liên minh với những cường quốc ngoại bang.[213] Sau chiến thắng của người Hy Lạp ở Salamis vào năm 480 TCN, vị tướng người Ba Tư là Mardonius đã phái Alexandros I của Macedonia tới Athens với tư cách là một đại diện ngoại giao chính để dàn xếp một liên minh giữa đế quốc AchaemenesAthens. Quyết định phái Alexandros được dựa trên sự thông gia của ông với một gia đình quý tộc Ba Tư và mối quan hệ chính thức trước đây của ông với thành bang Athens.[213] Với việc nắm giữ các nguồn tài nguyên tự nhiên bao gồm vàng, bạc, gỗ và những vùng đất đai thuộc hoàng gia, các vị vua Macedonia thời kỳ đầu cũng còn có khả năng mua chuộc các phe phái trong nước và ngoại quốc bằng những món quà ấn tượng.[214]

Có ít thông tin được biết đến về hệ thống pháp luật của Macedonia cổ đại ngoại trừ việc nhà vua giữ vai trò là thẩm phán tối cao của vương quốc.[215] Các vị vua Macedonia cũng là Tổng tư lệnh của quân đội.[note 18] Philippos II cũng còn được đánh giá cao nhờ vào những hành động mộ đạo của mình trong vai trò như là tư tế tối cao của quốc gia. Ông đã thực hiện các nghi lễ hiến hế hàng ngày và dẫn dắt những lễ hội tôn giáo.[216] Alexandros đã bắt chước nhiều khía cạnh khác nhau của triều đại người cha của mình, chẳng hạn như ban tặng đất đai và các món quà cho những quý tộc trung thành,[216] nhưng ông cũng đã đánh mất sự ủng hộ của những người chủ chốt trong số họ vì đã chấp nhận một số lễ phục của một vị quân chủ Phương Đông, Ba Tư, một "chúa tể và chủ nhân" như Carol J. King đề xuất, thay vì của một "người chiến hữu" giống như mối quan hệ truyền thống của các vị vua Macedonia với những chiến hữu của họ.[217] Cha của Alexandros, Philippos II, có lẽ đã chịu ảnh hưởng từ các truyền thống của người Ba Tư khi ông áp dụng các thể chế tương tự như các cơ quan ở trong vương quốc Achaemenes, chẳng hạn như là có một thư ký hoàng gia, kho lưu trữ hoàng gia, những người hầu hoàng gia, và một ngai vàng.[218]

Những người hầu hoàng gia

Bên trái, vị thần Dionysos cưỡi một con báo săn, bức tranh khảm sàn trong "ngôi nhà của Dionysos" tại Pella, Hy Lạp, nó có niên đại khoảng năm  330–300 TCN. Bên phải, một mảnh vỡ của bức phù điêu tạ ơn miêu tả một thanh niên múc rượu vang từ một krater bên cạnh một chiếc bàn tròn với những chiếc bình, ban đầu nó nằm tại agora của Pella và có niên đại là vào cuối thế kỷ thứ 4 TCN, Bảo tàng khảo cổ học Pella.

Những người hầu hoàng gia là các cậu bé và những thiếu niên được triệu tập theo nghĩa vụ từ các gia đình quý tộc và phục vụ các vị vua Macedonia có lẽ là từ triều đại của Philippos II trở đi, mặc dù vậy bằng chứng chắc chắn hơn cho điều này có niên đại là vào triều đại của Alexandros Đại đế.[note 19] Những người hầu hoàng gia đóng vai trò gián tiếp trong các hoạt động chính trị quan trọng và việc được triệu tập theo nghĩa vụ có vai trò như là một dự định để cho họ bước đầu làm quen với đời sống chính trị.[219] Sau một thời gian huấn luyện và phụng sự, những người hầu này được kỳ vọng sẽ trở thành một trong những chiến hữu và tùy tùng cá nhân của nhà vua.[220] Trong suốt quá trình huấn luyện của họ, những người hầu được kỳ vọng sẽ bảo vệ nhà vua khi ông yên giấc, dắt ngựa cho nhà vua, giúp nhà vua cưỡi ngựa, tháp tùng nhà vua trong các chuyến đi săn hoàng gia, và phụng sự nhà vua trong symposia (tức là các buổi tiệc rượu).[221] Mặc dù có ít các bằng chứng về những người hầu hoàng gia vào thời kỳ nhà Antigonos, chúng ta biết được rằng một số người trong số họ đã bỏ chạy cùng với Perseus của Macedonia tới Samothrace sau thất bại của ông trước người La Mã vào năm 168 TCN.[222]

Cận vệ

Các cận vệ hoàng gia đảm nhiệm vai trò là các thành viên thân cận nhất của nhà vua tại triều đình và trên chiến trường.[219] Họ được chia thành hai nhóm: agema của hypaspistai, một kiểu lực lượng đặc nhiệm cổ đại thường có số lượng vài trăm người, và một nhóm nhỏ hơn được đích thân nhà vua lựa chọn căn cứ vào những phẩm chất cá nhân của mỗi người hoặc là để tôn vinh những gia đình quý tộc mà họ xuất thân từ đó.[219] Do đó, lực lượng cận vệ, bị giới hạn về số lượng và hình thành nên nhóm thân tín của nhà vua, không phải lúc nào cũng chịu trách nhiệm cho việc bảo vệ sinh mạng của nhà vua khi ở trong hoặc ngoài chiến trường; tước hiệu và chức vụ của họ là một biểu hiện của sự ưu tú nhiều hơn, có lẽ được sử dụng để chế ngự sự ganh đua giữa các gia đình quý tộc.[219]

Chiến hữu, những người bạn, hội đồng, và các cuộc họp

Bên trái, một atrium với tranh khảm lát bằng đá cuội nằm ở Pella, Hy Lạp. Bên phải, mảnh vỡ của bản khắc đá có mang tên của các archon (politarch) ở 6 thành phố có niên đại vào thế kỷ 2 TCN, bảo tàng khảo cổ học Pella.

Các chiến hữu, bao gồm lực lượng chiến hữu kỵ binh và lực lượng bộ binh pezhetairoi tinh nhuệ, về cơ bản đại diện cho một nhóm lớn hơn những cận vệ của nhà vua.[note 20] Những người được tin cậy nhất hoặc những chiến hữu có cấp bậc cao nhất hình thành nên một hội đồng mà giữ vai trò như là một ban cố vấn cho nhà vua.[223] Một số lượng nhỏ các bằng chứng cho thấy sự tồn tại của một hội đồng quân sự trong thời chiến và một hội đồng nhân dân trong thời bình.[note 21]

Các thành viên của hội đồng có quyền phát biểu một cách tự do, và mặc dù không có bằng chứng trực tiếp cho thấy rằng họ đã bỏ phiếu cho các vấn đề của nhà nước, một điều rõ ràng rằng đôi khi nhà vua ít nhất là đã chịu sức ép phải đồng ý với yêu cầu của họ.[224] Hội đồng rõ ràng đã được trao quyền xét xử các vụ án phản quốcấn định hình phạt cho họ, chẳng hạn như Alexandros Đại đế đã đóng vai trò như là công tố viên trong phiên tòa xét xử và kết án ba người bị cáo buộc có liên quan đến âm mưu ám sát người cha của ông (trong khi những người khác đã được tuyên bố trắng án).[225] Tuy nhiên, có lẽ là không đủ bằng chứng để cho phép kết luận rằng các hội đồng và hội nghị lập pháp thường xuyên được duy trì hoặc có cơ sở hợp hiến vững chắc, hoặc rằng những quyết định của họ luôn được nhà vua chú ý.[226] Ngay sau khi Alexandros qua đời, các chiến hữu đã ngay lập tức tổ chức một hội đồng để nắm quyền kiểm soát đế quốc của ông, nhưng nó đã sớm trở nên mất ổn định bởi sự cạnh tranh và xung đột nổ ra giữa các thành viên của nó.[227] Quân đội cũng sử dụng binh biến như là một công cụ để đạt được các mục đích chính trị.[note 22]

Quan tòa, khối thịnh vượng chung, chính quyền địa phương, và các quốc gia đồng minh

Các vị vua nhà Antigonos của Macedonia đã dựa vào những vị quan lại địa phương khác nhau để quản lý các công việc của nhà nước.[228] Họ bao gồm các quan chức cấp cao của thành phố, chẳng hạn như vị strategos phụ trách quân sự và vị politarch, tức là vị tổng đốc được bầu chọn (archon) của một thành phố lớn (polis), cũng như chức vụ tôn giáo-chính trị là epistates.[note 23] Không có bằng chứng còn sót lại nào về lai lịch cá nhân của các vị quan chức này, mặc dù vậy họ có thể được chọn trong số những nhóm quý tộc philoi và hetairoi, họ đã được bổ nhiệm thế chỗ cho các tướng lĩnh quân đội.[215]

Bên trái, một đồng tetradrachm bằng bạc được thành phố Amphipolis phát hành vào năm 364–363 TCN (trước khi nó bị Philippos II của Macedonia chinh phục vào năm 357 TCN), nó khắc họa phần đầu của thần Apollo ở mặt trước và ngọn đuốc đang cháy trên mặt sau. Bên phải, một đồng stater vàng khắc hình ảnh Philippos II, nó được đúc tại Amphipolis vào năm 340 TCN (hoặc sau đó dưới triều đại của Alexandros), không lâu sau khi thành phố này bị Philippos II chinh phục và xáp nhập vào khối thịnh vượng chung Macedonia

Athens cổ đại, chế độ dân chủ của Athen đã được khôi phục trong ba lần khác nhau sau khi thành phố bị chinh phục lần đầu tiên bởi Antipatros vào năm 322 TCN.[229] Khi nó liên tục nằm dưới sự cai trị của người Macedonia, nó đã bị cai trị bởi một chế độ đầu sỏ do người Macedonia dựng nên bao gồm những công dân giàu có nhất của thành bang.[note 24] Những thành bang khác đã được đối xử theo cách hoàn toàn khác và được cho phép có một mức độ tự chủ lớn hơn.[230] Sau khi Philippos II chinh phục Amphipolis vào năm 357 TCN, thành phố này đã được phép giữ lại chế độ dân chủ của nó, bao gồm hiến pháp của nó, hội đồng nhân dân, hội đồng thành phố (boule), và các cuộc bầu cử những vị quan chức mới hàng năm, nhưng một đội quân đồn trú người Macedonia đã được bố trí bên trong các bức tường của thành phố cùng với một viên tham tán hoàng gia người Macedonia (epistates) để giám sát các vấn đề chính trị của thành phố.[231] Philippi, thành phố được Philippos II thành lập, là thành phố duy nhất trong khối thịnh vương chung Macedonia mà có một chính quyền dân chủ với hội đồng nhân dân, bởi vì hội đồng (ecclesia) của Thessaloniki, trong thực tế dường như chỉ có vai trò hình thức.[232] Một số thành phố cũng duy trì các khoản thu hàng năm của họ.[230] Các vị vua của Macedonia và chính quyền trung ương quản lý các khoản thu được phát sinh từ những ngôi đềntầng lớp tư tế.[233]

Trong khối thịnh vương chung Macedonia, một số bằng chứng từ thế kỷ thứ 3 TCN chỉ ra rằng các quan hệ ngoại giao với nước ngoài đã được quản lý bởi chính quyền trung ương. Mặc dù mỗi một thành phố Macedonia trên danh nghĩa là đã tham gia vào các sự kiện toàn Hy Lạp với tư cách là một thực thể độc lập, trong thực tế, việc cấp asylia (bất khả xâm phạm, miễn trừ ngoại giao, và quyền ẩn náu tại những nơi tôn nghiêm) cho các thành phố nhất định đã được xử lý trực tiếp bởi nhà vua.[234] Tương tự, các thành bang Hy Lạp nằm trong koina Hy Lạp cùng thời (tức là liên bang của các thành bang, sympoliteia) tuân theo các nghị định được bỏ phiếu tập thể bởi các thành viên của liên minh.[note 25] Trong các thành bang thuộc một liên minh hoặc liên bang, việc cấp proxenia (tức là việc tiếp đãi các sứ thần ngoại quốc) thường là một quyền được chia sẻ bởi chính quyền địa phương và trung ương.[235] Nhiều bằng chứng còn sót lại cho thấy việc cấp proxenia là đặc quyền duy nhất của chính quyền trung ương ở trong liên minh Ipiros, và một số bằng chứng cho thấy sự sắp đặt tương tự ở trong khối thịnh vượng chung Macedonia.[236] Các thành bang mà đã liên minh với Macedonia ban hành các nghị định liên quan đến proxenia của riêng họ.[237] Các liên minh ngoại quốc cũng thiết lập liên minh với các vị vua Macedonia, chẳng hạn như liên minh Crete đã ký các hiệp ước với Demetrios II AetolicosAntigonos III Doson bảo đảm sự cung cấp lính đánh thuê Crete cho quân đội Macedonia, và bầu chọn Philippos V của Macedonia là quan nhiếp chính danh dự (prostates) của liên minh.[238]

Quân đội

Bên trái, một lính bộ binh Macedonia được trang bị với một chiếc khiên hoplon, người này mặc loại áo giáp linothorax và đội mũ sắt Thrace, đây có thể là một hypaspist; bức phù điêu này thuộc chiếc quách của Alexandos có niên đại vào thế kỷ thứ 4 TCN. Bên phải, một chiếc khiên đồng Macedonia được khai quật từ địa điểm khảo cổ học ở Bonče thuộc Cộng hòa Macedonia, niên đại là vào thế kỷ thứ 4 TCN.

Quân đội Macedonia thời kỳ đầu

Cấu trúc cơ bản của quân đội Macedonia cổ đại là sự phân chia giữa lực lượng chiến hữu kỵ binh (hetairoi) và lực lượng chiến hữu bộ binh (pezhetairoi), được tăng cường thêm bởi các đội quân đồng minh khác nhau, các binh sĩ ngoại quốc được tuyển mộ, và lính đánh thuê.[239] Lực lượng chiến hữu bộ binh có lẽ đã tồn tại từ triều đại của Alexandros I của Macedonia.[240] Kỵ binh Macedonia, mặc áo giáp cơ bắp, đã trở nên nổi tiếng trong và sau khi họ tham gia vào cuộc chiến tranh Peloponnesus, vào thời điểm đó họ đứng về phía Athens hoặc Sparta.[241] Bộ binh Macedonia trong thời kỳ này bao gồm những người chăn cừu và nông dân được huấn luyện nghèo nàn, trong khi lực lượng kỵ binh bao gồm các quý tộc.[242] Dựa vào các chứng cứ là những tác phẩm nghệ thuật thuộc giai đoạn đầu thế kỷ thứ 4 TCN, có một ảnh hưởng rõ rệt từ người Sparta đối với quân đội Macedonia trước thời Philippos II.[243] Nicholas Viktor Sekunda tuyên bố rằng vào giai đoạn đầu triều đại của Philippos II vào năm 359 TCN, quân đội Macedonia bao gồm 10,000 bộ binh và 600 kỵ binh,[244] thế nhưng Malcolm Errington cảnh báo rằng những con số được các tác giả cổ đại trích dẫn nên được xem xét với sự hoài nghi nhất định.[245]

Philippos II và Alexandros Đại đế

Sau khi dành nhiều năm làm một con tin chính trị ở Thebes, Philippos II đã cố gắng mô phỏng các bài tập quân sự mẫu của người Hy Lạp và phát những trang bị tiêu chuẩn cho các dân binh, và đã thành công trong việc biến quân đội Macedonia từ một đạo quân được tuyển mộ từ những người nông dân thành một đạo quân được huấn luyện tốt, một đạo quân chuyên nghiệp.[246] Philippos II đã áp dụng một số chiến thuật quân sự từ kẻ thù của mình, chẳng hạn như là đội hình kỵ binh embolon từ người Scythia.[247] Lực lượng bộ binh của ông sử dụng những chiếc khiên peltai thay thế cho những chiếc khiên kiểu hoplon trước đó, họ được trang bị với những chiếc mũ giáp bảo vệ, giáp bảo vệ chân, và cả áo giáp bảo vệ thân hoặc các dải băng quanh bụng kotthybos, cùng với những ngọn giáo sarissa và một dao găm là vũ khí phụ.[note 26] Lực lượng bộ binh hypaspistai tinh nhuệ, bao gồm những người lính được tuyển chọn từ hàng ngũ pezhetairoi, được thành lập dưới triều đại của Philippos II và được tiếp tục sử dụng dưới triều đại của Alexandros Đại đế.[248] Philippos II cũng là người thiết lập nên lực lượng cận vệ hoàng gia (somatophylakes).[249]

Một bức tranh tường vẽ những người lính Macedonia đến từ ngôi mộ ở Agios Athanasios, Thessaloniki, Hy Lạp, thế kỷ thứ 4 TCN

Về phần đội quân chiến đấu tầm xa trang bị nhẹ của mình, Philippos II đã tuyển mộ lực lượng đánh thuê là các cung thủ Crete cũng như những lính phóng lao, lính ném đá, và cung thủ người Thrace, Paeonia, và Illyrii.[250] Ông cũng chiêu mộ các kỹ sư chẳng hạn như Polyidos của ThessalyDiades của Pella, những người có tài năng trong việc xây dựng các vũ khí công thành tiên tiến và những cỗ pháo mà có thể bắn những mũi tên lớn.[247] Sau khi giành được các mỏ dồi dào ở Krinides (được đổi tên thành Philippi), ngân khố hoàng gia đã có đủ khả năng để đưa ra chiến trường một đạo quân chuyên nghiệp thường trực.[251] Nguồn thu của nhà nước tăng lên dưới triều đại của Philippos II đã cho phép người Macedonia xây dựng một hạm đội nhỏ lần đầu tiên, mà bao gồm các tàu trireme.[252]

Đơn vị kỵ binh người Macedonia duy nhất được chứng thực dưới thời Alexandros là lực lượng chiến hữu kỵ binh,[249] tuy vậy ông đã thành lập một lực lượng chiến hữu kỵ binh hipparchia (tức là một đơn vị gồm vài trăm kỵ binh) mà bao gồm toàn bộ là người Ba Tư trong giai đoạn tiến hành chiến dịch ở châu Á.[253] Khi tiến quân tới châu Á, Alexandros đã mang theo 1,800 kỵ binh từ Macedonia, 1,800 kỵ binh từ Thessaly, 600 kỵ binh từ những vùng đất còn lại của Hy Lạp, và 900 kỵ binh prodromoi từ Thrace.[254] Antipatros đã có thể nhanh chóng xây dựng một lực lượng gồm 600 kỵ binh bản địa người Macedonia để tham gia vào cuộc chiến tranh Lamia khi nó nổ ra vào năm 323 TCN.[254] Những thành viên tinh nhuệ nhất trong lực lượng hypaspistai của Alexandros được gọi là agema, và một thuật ngữ mới cho hypaspistai đã được nảy sinh ra sau trận Gaugamela vào năm 331 TCN: argyraspides (những chiếc khiên bạc).[255] Lực lượng này tiếp tục phụng sự sau giai đoạn triều đại của Alexandros Đại đế và có thể có nguồn gốc châu Á.[note 27] Về tổng thể, lực lượng bộ binh phalanx sử dụng giáo của ông có số lượng khoảng 12,000 người, 3,000 trong số đó là lực lượng hypaspistai tinh nhuệ và 9,000 là pezhetairoi.[note 28] Alexandros tiếp tục sử dụng các cung thủ Crete và đưa thêm lực lượng cung thủ bản địa người Macedonia vào quân đội.[256] Sau trận Gaugamela, các cung thủ có gốc Tây Á đã trở nên phổ biến.[256]

Quân đội nhà Antigonos

Bức tranh tường về một người lính Macedonia (thorakites), mặc một áo giáp lưới và mang một chiếc khiên thureos, Thế kỷ thứ 3 TCN, bảo tàng khảo cổ học İstanbul

Quân đội Macedonia đã tiếp tục phát triển dưới thời nhà Antigonos. Người ta không rõ liệu có bao nhiêu người đã được chọn làm somatophylakes, có tám người trong lực lượng này vào giai đoạn cuối triều đại của Alexandros Đại đế, trong khi lực lượng hypaspistai dường như đã bị biến thành lực lượng hỗ trợ cho somatophylakes.[note 29] Tại trận Cynoscephalae vào năm 197 TCN, người Macedonia đã chỉ huy khoảng 16,000 lính giáo phalanx.[257] Đội kỵ binh chiến hữu hoàng gia của Alexandros Đại đế gồm 800 người, bằng số lượng kỵ binh trong đội kỵ binh thần thánh (tiếng Latin: sacra ala; tiếng Hy Lạp: hiera ile) được Philippos V của Macedonia chỉ huy trong cuộc chiến tranh Đồng Minh vào năm 219 TCN.[258] Lực lượng kỵ binh chính quy người Macedonia có số lượng 3,000 người tại Callinicus, nó tách biệt với lực lượng kỵ binh thần thánh và kỵ binh hoàng gia.[258] Trong khi các kỵ binh Macedonia vào thế kỷ thứ 4 chiến đấu mà không cần khiên, người Macedonia sau đó đã bắt chước sử dụng khiên cho kỵ binh từ những người Celt xâm lược vào thập niên 270 TCN, họ sau đó đã định cư ở Galatia, ở khu vực trung tâm Anatolia.[259]

Nhờ vào những bản khắc đương thời đến từ Amphipolis và Greia có niên đại lần lượt vào năm 218 và 181 TCN, các nhà sử học đã có thể dựng lại một phần nào đó tổ chức của quân đội nhà Antigonos dưới thời Philippos V.[note 30] Ít nhất là từ triều đại của Antigonos III Doson trở đi, lực lượng bộ binh tinh nhuệ nhất dưới thời nhà Antigonos là lực lượng peltast, những người lính trang bị nhẹ hơn và cơ động hơn sử dụng những ngọn lao peltai, gươm, và một chiếc khiên đồng nhỏ hơn những chiếc khiên của những người lính phalanx Macedonia.[note 31] Trong lực lượng peltast, khoảng gần 2,000 người được lựa chọn để phục vụ trong lực lượng tinh nhuệ tiên phong agema, cùng với các peltast khác với số lượng khoảng 3,000.[260] Số lượng peltast biến đổi theo thời kỳ nhưng có lẽ chưa bao giờ vượt quá 5,000 người.[note 32] Họ đã chiến đấu bên cạnh những người lính phalanx mà lúc này được chia thành các đội quân chalkaspides (khiên đồng) và leukaspides (khiên trắng).[261]

Các vị vua nhà Antigonos của Macedonia đã tiếp tục mở rộng và trang bị lực lượng hải quân.[262] Kassandros đã duy trì một hạm đội nhỏ tại Pydna, Demetrios I của Macedonia có một hạm đội ở Pella, và Antigonos II Gonatas, trong thời kỳ đảm nhiệm vai trò như là một vị tướng cho Demetrios ở Hy Lạp, đã sử dụng hạm đội để giữ những pháo đài của người Macedonia ở Demetrias, Chalkis, Piraeus, và Corinth.[263] Hải quân đã được phát triển đáng kể trong cuộc chiến tranh Chremonides (267–261 TCN), điều này cho phép hải quân Macedonia đánh bại hải quân Ai Cập của nhà Ptolemaios trong trận Cos vào năm 255 TCN và Trận Andros vào năm 245 TCN và cho phép mở rộng ảnh hưởng của người Macedonia lên toàn bộ quần đảo Cyclades.[263] Antigonos III Doson đã sử dụng hải quân Macedonia để xâm lược Caria, trong khi Philippos V phái 200 tàu tham gia vào trận Chios vào năm 201 TCN.[263] Hải quân Macedonia đã bị cắt giảm xuống còn 6 tàu theo hiệp ước hòa bình vào năm 197 TCN để kết thúc cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ hai với cộng hòa La Mã, mặc dù vậy Perseus của Macedonia đã nhanh chóng tập hợp được một số tàu lemboi vào thời điểm cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ ba bùng nổ vào năm 171 TCN.[263]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vương quốc Macedonia http://www.brill.com/etymological-dictionary-greek... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/354266/M... http://www.britannica.com/eb/art-84137/Ancient-art... http://www.seeker.com/remains-of-alexander-the-gre... http://www.youtube.com/watch?v=cuOxGMoHMMY&feature... http://www.ling.ohio-state.edu/~bjoseph/articles/g... http://jwsr.pitt.edu/ojs/index.php/jwsr/article/vi... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/